Tôi quyết định gửi tặng quý báo
câu chuyện của cha mẹ tôi nhân dịp Tết Nhâm Thìn này. Một câu chuyện khó tin,
không phải không đau đớn bởi bi kịch của nó, nhưng lại vô cùng xúc động và ấm
áp tình người do ứng xử của những người trong cuộc.
Phần 1:
Câu chuyện đã chứa đựng trong đó
phép nhiệm mầu khó tin về tình yêu thương, sự chịu đựng tha thứ trong cuộc đời
này. Để thế hệ con cháu chúng tôi ghi nhớ trong tâm khảm câu chuyện đời đẹp đẽ
của cha mẹ, ông bà, coi đó như một biểu tượng về tình yêu, đức hy sinh, tấm
lòng cao thượng hiếm có của cha mẹ, để mà noi gương, nương tựa trong cuộc đời.
Cha mẹ tôi sinh ra và lớn lên ở một
làng quê nghèo ở ven sông Bến Hải. Một con sông lịch sử, là nhân chứng sống
oanh liệt và bi tráng của cuộc chiến tranh giữ nước. Chúng tôi vẫn tự hào quê
cha đất mẹ ở ven con sông anh hùng này. Và đây, tại mảnh đất thấm máu các anh
hùng liệt sỹ đã ngã xuống vì cuộc đấu tranh của Tổ quốc, chúng tôi đã được sinh
ra và nuôi dưỡng. Trong những biến động của lịch sử, số phận của anh chị em
chúng tôi đã được sinh ra, lớn lên…
Cha mẹ tôi là những nam thanh nữ
tú của Trường Quốc học Huế. Gia đình bên nội và bên ngoại đều thuộc dòng họ khá
giả, nên bố mẹ tôi được gia đình nuôi dạy kỹ lưỡng và cho ăn học tử tế. Nhưng,
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc đã chia cắt tuổi thanh
xuân tươi đẹp của cha mẹ, như chia cắt bao cuộc đời, bao lứa tuổi của tất cả mọi
người lúc bấy giờ.
Năm 1953, cha mẹ cùng với những
người con yêu nước khác xếp bút nghiên cùng cả nước đi kháng chiến. Vì cha mẹ
là những người có học, nên tổ chức đã rất cân nhắc để sắp xếp cha mẹ vào đúng vị
trí công tác. Cả cha và mẹ đều trở thành những chiến sỹ biệt động, hoạt động bí
mật.
Khi cha mẹ chính thức trở thành
những chiến sỹ biệt động làm công tác tình báo, thì được hai bên gia đình cùng
tổ chức cho kết hôn. Lúc đó mẹ 19 tuổi, cha cũng đã 20, thời bấy giờ, đó là lứa
tuổi đẹp nhất và không hẳn là sớm nữa cho việc kết hôn, lập gia đình. Cha mẹ đã
có một tuổi thơ êm đềm bên nhau, có những kỷ niệm của thời học trò trong trắng,
có một tình yêu sâu đậm để có thể đơm hoa kết trái trong chín muồi.
Theo những ký ức còn sót lại của
cha mẹ trên bức ảnh cưới, hay trong những câu chuyện của bạn bè cha mẹ kể lại
thì mẹ tôi là một người con gái xinh đẹp nổi tiếng ở Trường Quốc học Huế. Mặc
dù yêu nhau đã 3 năm, tình yêu sâu đậm là vậy nhưng khi cha nhờ gia đình qua hỏi
mẹ làm vợ, mẹ có ý xin khi nào Cách mạng thành công, có sự nghiệp thì mới nên
cưới nhau. Cha sợ mất người yêu thế nên cha mới dứt khoát làm đám cưới với mẹ
trước khi nhận nhiệm vụ mới. Cha mẹ cưới nhau được 6 tháng, cha nhận nhiệm vụ mới
lên đường tập kết ra Bắc hoạt động. Mẹ vẫn ở lại bám trụ tổ chức ở Bình Trị
Thiên máu lửa.
Từ đấy cha mẹ mỗi người một
phương, cách nhau bởi con sông Bến Hải. Con sông hiền hòa nối hai bờ Nam Bắc giờ
đây là biểu tượng của sự chia cắt giữa hai miền. Một cuộc chia cắt xót đau do
chiến tranh đã bao trùm lên dân tộc Việt Nam một thời, chia cắt bao cuộc đời,
bao số phận đau thương, trong đó có cha và mẹ tôi.
Cha mẹ yêu nhau, nên vợ nên chồng
ở lứa tuổi thanh xuân đẹp nhất của đời người. Oái oăm thay, cũng chính ở lứa tuổi
căng tràn nhựa sống, cha mẹ đã buộc phải xa nhau, thiếu nhau, sống trong nỗi nhớ
thương khắc khoải. Chiến tranh nghiệt ngã với bao phận người thời đó, và nghiệt
ngã cho đến tận bây giờ bởi những di chứng để lại.
Không ai có thể biết trước được,
cuộc biệt ly ở sông Bến Hải là một cuộc biệt ly dài tới 20 năm. Mẹ nhớ cha, cha
thương mẹ mà không có cách chi liên lạc được. Mẹ từ cô gái thanh xuân 19 tuổi,
mái tóc dày đen như thác nước mềm mại của con sông Bến Hải, theo năm tháng bao
lần đổi màu buồn thương và rụng xác xơ.
Mẹ và mọi người kể lại rằng, cứ
hơn 1 năm, mẹ lại rụng tóc một lần. Mái tóc trước rụng hết, mái tóc sau lại mọc
lên xanh biêng biếc mà cha tôi không một lần trở về, không một chút hồi âm. Mẹ
vẫn lặng lẽ cống hiến cho công việc của cách mạng, hoạt động bí mật và dần dần
mẹ được giao trọng trách lớn hơn, tổ trưởng của một tổ chức bí mật ở Bình Trị
Thiên, là đường dây liên lạc với tổ chức ở trong nội thành Sài Gòn. Lúc này mẹ
đã được kết nạp Đảng, trở thành cán bộ tình báo chuyên nghiệp của quân đội và mẹ
được mặc quân phục, đeo quân hàm, được thăng chức…
Nhưng tất cả những cái thuộc về
danh chính ngôn thuận trong sự nghiệp cách mạng của mẹ vẫn là bí mật. Mẹ vẫn
trong vai cô chủ xinh đẹp của một tiệm cà phê nổi tiếng ở Huế, trong tay có nhiều
tiền và là một quý cô sang trọng kén chọn chưa lập gia đình.
Mẹ xa cha được 5 năm, 3 lần mái
tóc xanh của mẹ ngả màu và rụng xơ xác.
Tổ chức luôn nhắn tin động viên mẹ rằng, người chồng của mẹ vẫn mạnh khỏe
và bình an. Cha rất nhớ mẹ và chờ ngày đoàn tụ. Một lời nhắn của tổ chức lại
giúp cho mẹ hồi sinh, tóc mẹ mọc lại, xanh ngắt, môi mẹ lại hồng, làn da trắng
căng mịn và hồng hào. Mẹ vững vàng và xinh đẹp trở lại được là nhờ vào hy vọng.
Nhưng đời người con gái có bao
nhiêu được cái hy vọng đằng đẵng như vậy? Mẹ vẫn cắm đầu vào công việc để quên
đi những khao khát nhớ mong. Cha mẹ chưa kịp có với nhau đứa con, nên mẹ càng
buồn, càng cô đơn vò võ. Thăng trầm của đời mẹ là thứ mà mẹ không thể chế ngự nổi,
không thể chống đỡ được. Mọi người kể lại,
mẹ gần như phát điên, gần như bị trầm uất một thời gian dài phải vào viện khi xảy
ra sự cố với một người đàn ông phía bên kia chiến tuyến.
Đó là năm thứ 6, xa cha, khi mẹ
bước sang tuổi 25, đã rụng và mọc lại 3 mùa tóc. Trong một lần được tổ chức
phân công vào vai một quý cô sang trọng gia nhập vào một bữa tiệc của phía bên
kia để nắm tình hình địch, mẹ đã sa chân lỡ bước vào một mối tình đớn đau, và đớn
đau còn hơn vạn mối tình với cha tôi.
Mọi người trong gia đình của mẹ kể
lại rằng, đêm tiệc ấy, không biết vì buồn, vì hận cha bặt tin 6 năm trời, vì khủng
hoảng tinh thần, hay vì một phút chốc sa ngã mà mẹ đã uống đến say. Người cuối
cùng rời bữa tiệc và cũng là người đưa mẹ lên xe hơi trở về khách sạn bắt đầu
cho trang đời mới đầy bão giông của đời mẹ là người sỹ quan phía bên kia chiến
tuyến. Lạ lùng, mẹ không phải là đã say hẳn, thế mà sao đôi chân của mẹ cứ líu
ríu bước theo người sỹ quan trẻ trung và đẹp trai kia.
Rồi mẹ qua đêm ở đó. Khi tỉnh dậy,
mẹ hốt hoảng vì đang nằm trong một khách sạn lớn ở Huế bên một sỹ quan của địch.
Mẹ khóc như mưa như gió. Kẻ thù của mẹ, người đàn ông thua mẹ 3 tuổi ấy đã bình
tĩnh đỡ mẹ dậy, mặc quần áo cho mẹ và cầu hôn với mẹ trong một tình huống bẽ
bàng.
Ngay sau đó tổ chức biết chuyện
và đã làm một cuộc họp khẩn cấp để kỷ luật mẹ. Trong cuộc họp ấy, mẹ chỉ biết
cúi đầu khóc và xin nhận mọi hình thức kỷ luật. Cuộc họp căng thẳng, cấp trên của
mẹ đích thân xuống chỉ đạo. Mẹ mất hết chức vụ, cấp hàm, bị khai trừ Đảng. Chỉ
có cách duy nhất của mẹ để chuộc lại lỗi lầm, đó là mẹ chấp nhận lời cầu hôn của
người sỹ quan địch, chấp nhận hy sinh làm vợ của kẻ địch để thu thập tin tức về
cho tổ chức.
Thật đau xót, một người con gái
trí thức, tâm hồn trắng trong, đã có chồng, có một cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối,
đẹp như mơ ước, sao bây giờ số phận lại đẩy mẹ vào hoàn cảnh và tình huống trớ
trêu trái khoáy như thế này. Mẹ làm gì còn con đường nào để lựa chọn nữa. Gái
đã có chồng, không giữ được tấm lòng thủy chung của một người vợ có chồng đi
chiến đấu, lại lỡ làng với một sỹ quan của địch thì còn gì nhục nhã hơn. Mẹ
khóc, tuyệt vọng và phải vào viện để nằm dưỡng thương.
Thật may, tổ chức đã cắt cử người
ở bên cạnh mẹ, trông nom mẹ và làm công tác tư tưởng để cho mẹ thuận tình chấp
nhận làm vợ kẻ địch để lấy tin tức về cho tổ chức. Đó cũng chính là một hy sinh
to lớn của người chiến sỹ cách mạng, hy sinh tình riêng vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Lòng mẹ đau như cắt, sau 1 tháng nằm dưỡng thương ở bệnh viện, mẹ phát
hiện mình có thai và không còn cách nào thoái lui được nữa, mẹ nhắm mắt đưa
chân, chấp nhận tất cả những hệ lụy đau xót và trớ trêu của số phận mình.
Phần 2:
Thế là mẹ tôi bước vào cuộc hôn
nhân thứ 2 với trái tim trĩu nặng cảm giác tội lỗi. Cũng có lẽ cảm giác tội lỗi,
sự đau đớn đã làm cho mẹ có một tâm thế muốn lánh xa, trốn sâu trốn kỹ vào cuộc
hôn nhân với ba. Mẹ viết đơn xin ra khỏi tổ chức. Mẹ không muốn hệ lụy ràng buộc
gì với lý tưởng mà mẹ đã trót bội phản bằng việc không giữ mình được trước người
đàn ông thứ hai của đời mẹ là ba...
Sáu năm sau, mẹ đã kịp sinh cho
ba 4 đứa con lít nhít. Mẹ xin ra khỏi tổ chức để an phận với cuộc sống gia đình
và nuôi con. Mẹ không hề biết rằng, trong một phần sa ngã của mẹ đã có những sắp
đặt của số phận.
Nhưng chỉ đến khi cha tôi trở về
sau cuộc biệt ly dài 20 năm, cha tìm gặp mẹ thì mẹ mới biết được mẹ đã rơi vào
vòng xoáy của số phận mà mẹ chính là nạn nhân của cuộc hợp tan đau đớn này. Suy
cho cùng là tại bởi chiến tranh, chiến tranh đã làm cho bao nhiêu cặp vợ chồng
ly tán và hệ lụy khôn lường như cha và mẹ. Cha trở về tìm mẹ khi mẹ đã bước qua
tuổi 40, và các con của mẹ với ba đã lớn. Cuộc trùng phùng giữa mẹ và hai người
chồng của mẹ đẫm nước mắt. Và chỉ đến lúc đó, mẹ mới biết cái điều đau đớn và
khó tha thứ nhất cho mẹ, cho cha, cho cả ba nữa, đó là cha chính là thủ trưởng
của mẹ, của cả người chồng thứ 2 của mẹ trong tổ chức. Chính cha đã sắp đặt cho
ba đến với mẹ chứ không phải ai khác. Mẹ đã sững sờ, câm lặng và xót xa thương
cho hai người đàn ông của mẹ và cho bản thân mẹ nữa khi biết được sự thật này.
Sau này, cha tôi đã đau đớn kể
cho tôi nghe cuộc trùng phùng đẫm nước mắt của họ. Ngay cả khi gặp lại cha, mẹ
vẫn không hề hay biết cha là thủ trưởng của ba mẹ và là người đã sắp đặt mối
nhân duyên đau đớn cho vợ mình. Chỉ sau này, khi thấy mẹ quá giày vò trong mặc
cảm và tội lỗi, mẹ bị trầm cảm nặng, phải vào viện khi hay tin cha trở về cho đến
lúc ấy, cha vẫn một lòng yêu mẹ, sống khắc kỷ một mình, lao vào công việc và
không lập gia đình lần nữa để có vợ có con, mẹ mới càng bị bệnh thêm. Mẹ ốm
quá, day dứt trong mặc cảm vì đã phản bội cha, và càng day dứt hơn khi cha trở
về với tuổi tác và sự cô độc trong đời sống. Cha thương mẹ, nên đã buộc lòng phải
thú thật cho mẹ biết, trong tình hình căng thẳng, chiến tranh không biết khi
nào mới kết thúc, cha một phần là do yêu cầu của công việc hoạt động tình báo,
một phần là sợ mẹ lỡ làng cả một đời đàn bà vì có người chồng như cha đi biền
biệt ra Bắc không biết đến ngày nào về. Cha cũng đã suy nghĩ rất kỹ trước khi
cân nhắc mọi việc.
Cái quan trọng là cha rất yêu và
thương mẹ, không muốn mẹ khổ, đơn độc, không con cái, không người chồng bên cạnh
khi tuổi xuân đang trôi đi nên cha đã ngầm tạo điều kiện để cho nhân viên của
mình lúc này là ba trong vai người của phe đối lập gần gũi mẹ và nếu như số phận
đã có duyên thì chuyện tình cảm sẽ xảy ra, sau này tạo tình huống để mẹ và ba
thành vợ thành chồng.
Chỉ đến khi cha nói ra sự thật
đó, mẹ mới bớt ốm, bớt day dứt. Mẹ tĩnh tâm lại và phục hồi sức khoẻ. Cha nói với
tôi, mẹ như cất đi được một gánh nặng ẩn ức của đời mẹ để có thể nhẹ nhõm hơn với
cuộc sống hiện tại, với người chồng của mẹ là ba. Nhưng tình yêu, nghĩa vợ chồng
là một thứ tình thiêng liêng và kỳ lạ. Nếu xa nhau do hoàn cảnh trớ trêu chứ
không phải xa nhau do đã oán thán thù ghét nhau thì tình cảm càng khó dứt càng
sâu đậm. Chính ba, chứ không phải ai khác, đã nhìn thấu tình cảm của mẹ, hiểu
sâu sắc những day dứt của mẹ nên ba đã nói lời chia tay với mẹ để mẹ có thể trở
về với cuộc hôn nhân đầu tiên, mối tình đầu tiên sâu đậm của mẹ.
Mẹ tôi thật khổ. Đi gần hết đời
người rồi mà trong tâm trí, tình cảm vẫn chông chênh và ghềnh thác như không
tìm thấy một bến đỗ bình yên, một chốn thanh thản an nhiên cho cuộc đời nhiều uẩn
khúc của mẹ. Một bên là ba với 4 đứa con ràng rịt máu mủ. Một bên là cha, người
chồng mẹ yêu hơn tất cả với bao nỗi khổ đau giày vò do hoàn cảnh. Nhưng trong
tình thế này, mẹ không thể bỏ đàn con thơ để về với cha, như thế thật vô đạo đức.
Mẹ cũng khó sống bình yên bên ba, khi ngày ngày chứng kiến người chồng đầu tiên
của mẹ sống đơn độc. Mẹ tôi, cha tôi và ba tôi đã khổ đến thế nào trong tình cảnh
này. Ba tôi đã để mẹ tôi ở lại giữa hai người đàn ông để ra đi, để cho mẹ khoảng
thời gian trống vắng để mẹ biết mẹ thuộc về ai, về người chồng đầu tiên hay người
chồng hiện tại, về quá khứ hay cuộc sống đang diễn ra. Ba nói, ba không có quyền
ngăn cản mẹ, hay giữ mẹ ở lại bên ba, bởi lỗi là chiến tranh…
Tôi không biết nên cảm ơn mẹ, hay
oán trách mẹ khi tôi sinh ra và có mặt trên cuộc đời này. Chỉ biết rằng, sự tạo
điều kiện gần như xô đẩy của ba cho cha và mẹ tôi được gặp nhau, mà tôi được
sinh ra trong một phút giây ngập tràn đau khổ của cha mẹ. Mẹ sinh tôi khi bà đã
ngoài 40 tuổi, và ba, chính ba đã van mẹ hãy giữ tôi lại nuôi tôi lớn lên và
trao tôi cho cha tôi khi hay tin từ mẹ tôi rằng bà đã có thai với cha tôi sau
phút trùng phùng đẫm nước mắt mà ba tôi đã tạo tình huống và cho phép cha mẹ
tôi gặp nhau riêng tư sau 20 năm ly biệt. Cả ba, và mẹ, và cha tôi không ngờ được
rằng tôi có thể ra đời sau phút giây ngắn ngủi và đau đớn ấy. Bởi sau cuộc gặp,
sau những việc gì cần phải giải quyết, làm nhẹ lòng giữa cha và mẹ sau 20 năm mất
nhau thì cha quyết tâm ra đi khỏi quê hương. Cha đi tìm ba cho mẹ và bảo với ba
về với mẹ vì mẹ luôn cần có bố cho 4 đứa con của mẹ. Đời mẹ đã khổ nhiều rồi. Về
phía cha, cha chọn cách trở về đơn vị và xung phong vào phía Nam công tác. Cha
không muốn làm xáo trộn cuộc sống của mẹ, không muốn mẹ bị phân tâm hay khổ đau
thêm nữa vì cha. Cha muốn ra đi mãi mãi khỏi cuộc đời mẹ, quá khứ của mẹ để mẹ
bình yên với cuộc sống của mẹ hiện tại.
Còn ba tôi, mặc dù thật khó khăn
để chấp nhận sự thật hệ lụy sau cuộc gặp gỡ của vợ mình với chồng cũ, nhưng cha
vẫn bình tĩnh van xin mẹ hãy giữ lại giọt máu của cha. Biết sự thật làm ba ghen
tuông, đau khổ nhưng ba đã không bỏ mấy mẹ con tôi lại để ra đi. Ba cũng không
mang 3 đứa con của ba với mẹ để ra đi, nhường mẹ lại cho cha tôi và sinh linh
bé nhỏ sắp ra đời là tôi. Ba đã ngay lập tức trở về nhà khi mẹ chạy đi tìm ba
trong tuyệt vọng và nói với ba: “Em không thể sống mà thiếu anh và các con”. Ba
đã quay về với mẹ ngay trong lúc mẹ xáo trộn tâm tư nhiều nhất. Ba cứ nghĩ ra
đi là giải thoát tình huống cho mẹ bình tĩnh để nhìn sâu vào tâm hồn mẹ, xem mẹ
thực sự thuộc về ai.
Thế nhưng ngay khi tiễn cha tôi
vào Nam công tác, ngay khi nhìn thấy mẹ tất tả đi tìm ba, ba tôi đã ôm ghì lấy
mẹ mà khóc. Cả cha tôi, mẹ tôi và ba tôi đều bình tĩnh chấp nhận quá khứ, hiện
tại và tương lai khi tất cả đều hiểu rõ họ đang làm gì, quyết định mọi việc thế
nào. Ba tôi đã giữ tôi lại cho cha tôi và mẹ tôi như một niềm tri ân với cuộc đời.
Khi tôi tròn 5 tuổi, mẹ trao tôi
cho ba tôi. Mẹ nói ba tôi đi vào miền Nam tìm cha tôi và trao tôi cho ông ấy. Mẹ
dặn, nếu cha tôi đã có vợ, có cuộc sống riêng rồi thì ba tôi cho tôi nhận cha
và mang tôi trở về cho mẹ. Còn nếu cha tôi vẫn chọn cuộc sống cô độc thì ba hãy
trao tôi cho cha tôi nuôi dưỡng. Ba tôi đã dắt tôi đi, mang tôi đến cho cha
tôi. Cha tôi không lấy vợ, không lập gia đình. Đó là điều kỳ lạ nhất mà mẹ tôi
không thể chấp nhận được ở ông. Mẹ đã nhiều lần nhắn với cha rằng, cha không lập
gia đình làm cho mẹ càng thêm đau khổ. Nhưng ý cha đã quyết vậy, tôi cũng không
thể hiểu được vì sao cha chọn cuộc sống cô độc như vậy. Sau này khi tôi đã lớn,
đã trưởng thành, cha nói với tôi rằng với cha một lần lấy vợ là đã đủ. Có thêm
tôi nữa thì cha không còn cần gì hơn. Và từ đó, tôi sống cùng cha tôi, và cuộc
sống của cha con tôi vô cùng ấm áp vì năm nào, cha cũng dắt tôi ra Huế để được
đón tết cùng mẹ và ba.
Cứ mỗi dịp tết đến, mẹ tôi quây
quần làm cỗ cho cả nhà thưởng thức. Các anh chị con của ba và mẹ đều đã lớn, đã
lập gia đình và đều coi cha tôi như người cha thứ hai. Gia đình sum vầy đông đủ
bên nhau trong những ngày tết để nghe ba, mẹ và cha tôi ôn lại chuyện cũ thời
hoạt động cách mạng trong bí mật. Cả ba tôi, mẹ tôi và cha tôi đều đã già, và họ
sống bên nhau, đoàn tụ cùng nhau trong những giây phút hiếm hoi dịp cuối năm.
Cha tôi coi ngôi nhà của ba mẹ tôi như một nơi chốn trở về. Còn tôi coi ba như
người cha đẻ của mình, và ba tôi cũng cưng chiều tôi hơn cả. Ba thương tôi thiệt
thòi, và ba thương nhiều đến mấy cũng không bù đắp hết được cho tôi.
Gia đình tôi đã có biết bao mùa
xuân ấm áp trong đời, sau bao đau khổ, mất mát. Ba tôi và cha tôi đều yêu mẹ, đều
trân trọng mẹ và thương mẹ. Mấy anh chị em chúng tôi đùm bọc bên nhau, yêu
thương nhau và chia sẻ với nhau mọi thứ. Cả mẹ tôi và ba tôi đều quy y cửa Phật
sớm, nên cuộc sống rất thanh thản. Khi mẹ tôi mất, cả ba và cha tôi cùng nhau
lo hậu sự cho mẹ, lo cho mẹ một đám tang trọn vẹn. Mẹ nổi tiếng ở Huế là người
phụ nữ có “hai chồng” dù chỉ khái niệm hai chồng chỉ là trong dấu nháy. Giờ đây
cả ba tôi, cha tôi đều đã về trời. Dù vậy, năm nào cũng thế, cứ mỗi độ xuân về,
tôi cố gắng trở ra Huế ăn tết với các anh chị tôi. Ngay cả khi tôi lập gia đình
riêng, lấy chồng và sinh con thì tôi vẫn không bỏ thói quen ấy. Tôi quyết định
viết ra câu chuyện này để giữ lại cho thế hệ các con cháu để thế hệ sau có thể
hình dung được ông bà chúng đã trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt và nhiều hy
sinh như thế nào.
Nguồn: CAND.COM
No comments:
Post a Comment